Từ đầu hẻm ta sẽ thấy cổng tam quan của lăng thật trầm mặc với tường màu vàng và mái ngói đỏ. Diện tích của khu lăng rất rộng gồm khu điện thờ, khu lăng mộ và một sân rất rộng và thoáng mát.
Bước qua cánh cổng, tại sân ta sẽ thấy 2 lư hương thật to nằm trước khu điện thờ được làm bằng xi măng.
Bước chân vào khu điện thờ ta sẽ thấy được điện thờ chia làm 2 khu vực. Một khu vực được sử dụng như một rạp hát khi tổ chức lễ cúng của ông và một khu vực thờ cúng Đức quận công Võ Tánh.
Nhưng có một điều mà tui vẫn chưa hiều tại sao lối vào khu điện thờ lại chỉ là nhửng cửa nhỏ không phải là những cánh cửa chính như những lăng khác. Để vào được khu điện thờ có 4 cửa để vào: 2 cửa bên hông ngay sân thiên tỉnh, 2 cửa ngay khu vực nhà hát đó là lối đi cho những diễn viên. Không có cửa chính???
Khu vực nhà hát để biểu diễn trong dịp giổ ông nhưng đến hiện tại vẫn chưa có xuất diễn nào chỉ có những cuộc thi văn nghệ của địa phương tổ chức.
Sân thiên tỉnh với 2 cửa vào 2 bên để vào khu điện thờ. Sân thiên tỉnh ở đây Minh tui gọi cho giống như bên lăng ông bà chiểu.
Khu vực điện thờ không cầu kì, hoành tráng nhưng rất đơn sơ, trang nghiêm và được phục dựng theo mẫu cũ.
Trước bàn thờ
Với góc ảnh này thì rất trang nghiêm, với hoành phi, câu đối, chim hạc, bàn thờ....
Nhờ cô Báu - người chăm sóc lăng hiện tại - hướng dẫn thì Minh tui mới biết được trên bàn thờ chính có 2 hộp gỗ nhưng chính cô cũng không biết bên trong có gì. Bình thường những hộp gỗ này sẽ được đặt phía sau một khung ảnh trống vì Minh tui hỏi nên cô mới hướng dẫn để biết.
Cận cảnh 2 hộp gỗ.
Bàn thờ bên phải.
Bàn thờ bên trái.
Trong khu điện thờ nhìn ra sân thiên tỉnh trong nắng trưa.
Những hàng binh đoa, chim hạc trong khu thờ,
Phía ngoài khu điện thờ là một sân rất rộng. Bình thường đây là nơi tập võ...
Sau lưng khu điện thờ là lăng mộ của Đức Quận công Võ Tánh
Phía trước có bức phù điêu hình hổ trông rất uy nghi, dũng mãnh.
Hai bên tường cũng có những bức phù điêu phong cảnh
Bàn thờ để thắp hương
Mộ Đức Quận công Võ Tánh.
Ngày giỗ ông là ngày 27/5 AL, giỗ bà là ngày 26/6 AL.
Khu mộ nhìn từ phía sau.
Theo cụ Vương Hồng Sển, thì thi hài Võ Tánh đã bị cháy hết. Sau, vua Gia Long sai lập một mộ nữa cho ông ở Phú Nhuận (nay tọa lạc tại hẻm số 19 đường Hồ Văn Huê) và chôn hình nhân bằng sáp.
Mộ Võ Tánh hiện nay nằm trong nội cung thành Hoàng Đế của Nguyễn Nhạc, cũng là thành Đồ Bàn của vua Chăm. Mộ hình tròn trên có đắp biểu tượng một con dơi, nằm kề bên mộ Ngô Tùng Châu hình chữ nhật (đã được cải táng về Phù Cát).
Tại đầu ấp Gò Tre, xã Long Thuận, thị xã Gò Công, hiện có ngôi đền thờ Võ Tánh mang tên là Võ Quốc Công Miếu.
Một số hình ảnh khác trong lăng.
Hiện nay hiện vật còn lưu giữ tại đây chính là 2 câu đối này, có thể nói đây là hàng thiệt (theo cô Báu)
Mặc dù mới được trùng tu vào năm 2008 nhưng hiện nay rất nhiều thân cột đã có hiện tượng nút nẻ
Và điều cô Báu rất quan tâm là mái ngói xộc xệch như thế này sẽ thấm xuống bên trong khi mùa mưa tới.
Cô Báu - người chăm sóc Lăng Võ Tánh - rất vui và ngạc nhiên khi giữa trưa lại có người đi tìm hiểu về lăng.
Một nhánh tường vi trong khu lăng có thể để lăng trông bớt buồn hiu, u quạnh khi rất ít người ghé thăm. Bình thường khu điện thờ sẽ đóng cửa để đề phòng mất mác, chỉ khi có khách đến thăm thì mới mở cửa.
Hành lang vắng lặng vì rất ít người đến thăm viếng.
Cô quạnh |
Trầm mặc |
Thanh vắng |
THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA ĐỨC QUẬN CÔNG VÕ TÁNH
Võ Tánh (chữ Hán: 武性, ? - 1801) là một danh tướng nhà Nguyễn. Ông có công giúp Nguyễn Ánh chống nhà Tây Sơn và mất trước khi nhà Nguyễn chính thức thành lập. Võ Tánh sinh tại huyện Phước An, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc tỉnh Đồng Nai), sau dời về huyện Bình Dương, Gia Định. Vì không chịu thần phục nhà Tây Sơn, từ năm 1783 đến năm 1788, ông cùng với người anh là Võ Nhàn tập hợp lực lượng nổi dậy tại thôn Vườn Trầu (Hóc Môn), tự xưng là Nghĩa quân Kiến Hòa (sử gọi là Kiến Hòa Đạo), giương ngọn cờ Khổng Tước Nguyên Võ (Khổng Tước Nguyên là tên chữ của Gò Công), rồi kéo quân chiếm giữ cả vùng Gò Công.
Theo chúa Nguyễn
Năm 1788, nhận lời mời của chúa Nguyễn Phúc Ánh, ông đến Nước Xoáy (Sa Đéc) hội binh, được phong là Tiên phong dinh Khâm sai chưởng cơ, và được chúa gả cho em gái là Ngọc Du.Năm 1790, Võ Tánh tiến đánh thành Diên Khánh chiếm được phủ thành, đánh bại tướng Tây Sơn là Đào Văn Hồ.
Năm 1793, Võ Tánh được thăng chức Khâm Sai Quán Suất Hậu Quân Dinh Bình Tây Tham Thắng Tướng Quân Hộ Giá. Khi trấn thủ thành Diên Khánh, Võ Tánh dùng mưu đuổi quân Tây Sơn đến vây thành vào năm 1794. Sau đó ông được phong tước Quận Công kiêm lãnh chức Đại Tướng Quân.
Năm 1797, ông theo Nguyễn Phúc Ánh ra đánh Quảng Nam. Thừa thắng, ông vượt qua sông Mỹ Khê (Quảng Ngãi) đánh bại Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Giáp.
Năm 1799, ông lại theo chúa Nguyễn tiến đánh Quy Nhơn. Vào cửa biển Thị Nại, Võ Tánh và Chưởng Hữu Quân Nguyễn Huỳnh Đức đánh thắng quân Tây Sơn tại Thị Giả, rồi giết được Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Thiệt tại cầu Tân An. Đô Đốc Lê Chất xin hàng, xin làm thuộc tướng của Võ Tánh. Ông chặn đánh quân của Thái Phó Tây Sơn là Lê Văn Đang tại làng Kha Đạo, bắt được 6.000 quân Tây Sơn và 50 thớt voi. Các tướng Tây Sơn là Lê Văn Thanh và Nguyễn Đại Phát phải mở cửa thành Qui Nhơn xin hàng. Thành Quy Nhơn được đổi tên là thành Bình Định (kinh đô Chà Bàn cũ của người Chăm).
Tuẫn tiết
Năm 1801, khi đại quân chúa Nguyễn rút về Gia Định, thành Bình Định được giao cho Võ Tánh và Lễ bộ tham tri Ngô Tùng Châu trấn giữ. Thành Bình Định ngay sau đó bị đại quân Tây Sơn, dưới quyền chỉ huy huy của Thái Phó Trần Quang Diệu và tướng Võ Văn Dũng đến bao vây. Trần Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành và chia quân vây bốn mặt, Võ Văn Dũng thì đôn đốc thủy quân phòng giữ cửa Thị Nại. Cuộc bao vây kéo dài đến 14 tháng.Cũng trong năm này, Nguyễn Ánh cùng Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy đem đại binh ra tìm cách giải vây cho Bình Định, đại thắng thủy quân Tây Sơn tại Thị Nại. Đây là trận thủy chiến lớn nhất của cuộc chiến tranh Nguyễn-Tây Sơn. Tuy quân Nguyễn thắng trận, tiêu diệt thủy quân Tây Sơn, nhưng không giải vây được trên bộ, thành Bình Định vẫn bị quân Tây Sơn vây chặt.
Võ Tánh và Ngô Tùng Châu sai người lén đem mật thư ra cho Nguyễn Phúc Ánh khuyên ông kéo quân ra đánh Phú Xuân, để ông cùng Ngô Tùng Châu cố giữ thành cầm chân quân Tây Sơn. Chúa Nguyễn nghe theo, và tháng 5 năm Tân Dậu (1801) đánh lấy được Phú Xuân.
Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng nghe tin Phú Xuân thất thủ, liền sai tướng đem quân ra cứu. Quân ra tới Quảng Nam thì bị chặn đường phải trở lui. Trần Quang Diệu nổi giận đốc quân đánh thành luôn ngày đêm. Trong thành binh sĩ lâu ngày thiếu lương thực, có người khuyên Võ Tánh nên vượt vòng vây trốn thoát, nhưng ông cương quyết ở lại "Không thể được. Ta phụng mạng giữ thành này, nên thề với thành cùng sống chết. Nếu bỏ thành mà hèn nhát trốn lấy một mình, thì sau này còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng?". Ông sau đó cho người trao cho Trần Quang Diệu một bức thư, xin tha chết cho quân sĩ trong thành. Ông sai thuộc hạ lấy rơm củi chất dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào, rồi châm ngòi tự vẫn. Tiếp theo, Ngô Tùng Châu cũng dùng thuốc độc tự vẫn. Đó là ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu, tức vào ngày 7 tháng 7 năm 1801.
Khi chiếm được thành, Trần Quang Diệu tỏ ra xúc động trước sự trung dũng của Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, sai người tẩm liệm thi hài hai ông tử tế, rồi theo lời yêu cầu của Võ Tánh, không giết hại hàng binh nhà Nguyễn.
Năm 1802, khi chúa Nguyễn đã chiếm được Phú Xuân, Tây Sơn lại mất Trấn Ninh, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng phải bỏ thành đi theo đường thượng đạo qua Lào về cứu vua Cảnh Thịnh..
Thông tin thêm
Võ Đông Sơ, người đã gợi cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật dựa trên mối tình Võ Đông Sơ-Bạch Thu Hà nổi tiếng, là con của ông và công chúa Ngọc Du.(theo wiki)
Như vậy đến nay có 5 địa điểm thờ tự Võ Tánh:
1) Mộ Võ Tánh ở thành Hoàng Đế
2) Miếu thờ Hoài Quốc Công Võ Tánh tại Gò Công
3) Mộ Võ Tánh ở Phú Nhuận
4) Mộ Võ Tánh ở Tân Bình???
5) Phủ thờ Hoài Quốc Công Võ Tánh tại Cố đô Huế
Tham khảo:
Phần 1: LĂNG HOÀI QUỐC CÔNG VÕ TÁNH
Phần 2: NGÔI MỘ VÕ TÁNH Ở TÂN BÌNH???
Phần 3:
Phần 4:
Phần 5:
Bố susu
05-2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét